Giới thiệu chung
Tên đơn vị: SỞ Y TẾ TỈNH TRÀ VINH.
Năm thành lập: 1992.
Trụ sở tại: 16A, Nguyễn Thái Học, phường 1, thị xã Trà Vinh.
Điện thoại : 074.3862399
Fax : 074.3864225
Email : soyte@travinh.gov.vn
Cơ quan chủ quản: Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Chức năng, nhiệm vụ: Tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước về lĩnh
vực y tế và tổ chức thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NGÀNH Y TẾ TỈNH TRÀ VINH
Ngành
Y tế tỉnh Trà Vinh được thành lập từ tháng 6/1992, sau khi tái lập tỉnh vào
tháng 5/1992. Toàn tỉnh có 07 huyện, 01 thị xã; với 75 xã, phường; dân số
904.548 người, diện tích tự nhiên 2.362 km2, mật độ dân số trung
bình 382 người/km2.
Năm 1992, vào thời điểm ban đầu khi
mới thành lập, ngành Y tế gặp rất nhiều khó khăn, hầu hết trụ sở làm việc bị
xuống cấp, chật hẹp và không đủ để bố trí nơi làm việc cho một số đơn vị trực
thuộc; Sở Y tế phải sắp xếp lại biên chế, tổ chức bộ máy các đơn vị trực thuộc
và hệ thống y tế của ngành, đồng thời động viên toàn bộ cán bộ, nhân viên ngành
Y tế quyết tâm thực hiện đạt kế hoạch đề ra.
-
Về cơ sở khám chữa bệnh: Năm 1992, toàn tỉnh có 91 cơ sở y tế công lập, với 960
giường bệnh, đạt 10,61 giường bệnh/vạn dân (không kể giường bệnh Trạm Y tế xã,
phường); gồm có:
+ Bệnh
viện đa khoa tỉnh: Được thành lập từ chuyển đổi Bệnh viện đa khoa khu vực Trà
Vinh (tỉnh Cửu Long) thành Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh (400 giường) là
trung tâm điều trị cao nhất của tỉnh, cơ sở đã xuống cấp trầm trọng, phương
tiện phục vụ cho công tác khám chữa bệnh quá thiếu, lại lạc hậu, hư hỏng nhiều,
làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng khám và điều trị bệnh.
+ Bệnh
viện Y học dân tộc tỉnh Trà Vinh (100 giường) được giữ nguyên cơ sở từ thời
tỉnh Cửu Long (tại ấp Bến Có, xã Nguyệt Hóa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh)
chỉ có khu nhà hành chính được xây dựng cơ bản, còn lại khu khám và điều trị
bệnh đều bằng tre lá, gây rất nhiều khó khăn trong khám và chữa bệnh.
+ Tuyến
cơ sở, có 07 Bệnh viện huyện và 07 phòng khám đa khoa khu vực (tổng số có 460
giường) đa số được xây dựng bán kiên cố; cùng với 75 Trạm Y tế xã, phường, đạt
100% xã, phường có Trạm Y tế, trong đó có khoảng 60% TYT được xây dựng cơ bản,
các TYT còn lại được xây dựng bán cơ bản, hoặc bằng tre lá.
-
Về tổng số cán bộ, nhân viên ngành y tế có 1.512 người; trong đó có: 153 bác
sĩ, 10 dược sĩ đại học, 50 dược sĩ trung học, 598 y sĩ, số còn lại là cán bộ
khác; đạt 1,69 bác sĩ/vạn dân và 0,11 dược sĩ đại học/vạn dân.
-
Công tác khám bệnh, chữa bệnh được 420.751 lượt người, bình quân mỗi người dân
được khám chữa bệnh 0,46 lần/năm; thực hiện tốt công tác phòng bệnh, bao gồm:
kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng mở rộng, phòng chống sốt rét, chương trình
thuốc chủ yếu và trang thiết bị, chương trình lồng ghép (như: lao, phong, mắt
hột, vệ sinh môi trường, PAM, Sida, suy hô hấp cấp, thiếu hụt vitamin A, tiêu
chảy,…) và các hoạt động chuyên môn khác của ngành Y tế.
Đến năm 2002
(10 năm sau tái lập tỉnh), toàn tỉnh có 07 huyện, 01 thị xã; 96 xã, phường, thị
trấn; ngành y tế đã củng cố, kiện toàn, phát triển cơ sở y tế, kết quả có 101
cơ sở khám chữa bệnh (KCB) công lập, với 960 giường bệnh, đạt 9,45 giường
bệnh/vạn dân (không kể giường bệnh Trạm Y tế xã, phường); gồm có: Bệnh viện đa
khoa tỉnh (400 giường), Bệnh viện Y học cổ truyền (60 giường), 06 bệnh viện
huyện (350 giường), 14 phòng khám đa khoa khu vực (150 giường), 79 trạm Y tế
xã, phường, thị trấn.
- Tổng
số cán bộ, nhân viên ngành y tế có 1.601 người; trong đó có: 294 bác sĩ, 19
dược sĩ đại học, 59 dược sĩ trung học, 515 y sĩ, số còn lại là cán bộ khác; đạt
2,89 bác sĩ/vạn dân và 0,19 dược sĩ đại học/vạn dân.
-
Tổ chức khám bệnh, chữa bệnh được 842.041 lượt người, bình quân mỗi người dân
được khám chữa bệnh 0,83 lần/năm; thực hiện tốt công tác phòng bệnh thông qua
các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội,
bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS gồm có: Dự án phòng, chống bệnh sốt rét, lao,
phong, tiêm chủng mở rộng, sốt xuất huyết, suy dinh dưỡng trẻ em, HIV/AIDS,
bướu cổ, bảo vệ sức khỏe tâm thần và vệ sinh an toàn thực phẩm; tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (thể nhẹ cân) chiếm 29,7%.
Năm 2012 (Sau 20 năm tái lập tỉnh)
toàn tỉnh có 07 huyện, 01 thành phố; 105 xã, phường, thị trấn; toàn tỉnh có 119
cơ sở khám chữa bệnh (KCB) công lập, với 1.620 giường bệnh, đạt 15,92 giường
bệnh/vạn dân; gồm có: Bệnh viện đa khoa tỉnh (500 giường), Bệnh viện Y học cổ
truyền (100 giường), Bệnh viện Lao và bệnh phổi (100 giường), BVĐKKV Cầu Ngang
(200 giường), BVĐKKV Tiểu Cần (200 giường), Bệnh viện Quân Dân y (50 giường),
05 bệnh viện huyện (470 giường), 15 phòng khám đa khoa khu vực và 93 trạm Y tế
xã, phường, thị trấn.
- Tổng
số cán bộ, nhân viên ngành y tế có 3.205 người; trong đó có: 521 bác sĩ, 47
dược sĩ đại học, 336 dược sĩ trung học, 648 y sĩ, số còn lại là cán bộ khác;
đạt 5,12 bác sĩ/vạn dân và 0,46 dược sĩ đại học/vạn dân.
- Tổ
chức khám bệnh, chữa bệnh được 1.950.267 lượt người, bình quân mỗi người dân
được khám chữa bệnh 1,92 lần/năm; tổ chức thực hiện tốt công tác phòng, chống
dịch bệnh như: Cúm A(H5N1, H1N1), Tay chân miệng, Sốt xuất huyết, Tiêu chảy,
Quai bị; triển khai thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia,
kết quả tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (thể nhẹ cân) còn 16,9%.
Năm 2021 và ước kết quả đạt được sau 30 năm
tái lập tỉnh (1992 – 2022)
Toàn
tỉnh có 09 huyện, thị xã, thành phố; 106 xã, phường, thị trấn;
Trong
30 năm qua, ngành y tế đã được sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, UBND
tỉnh; sự chỉ đạo về chuyên môn của Bộ Y tế và sự hỗ trợ của các Sở, ban ngành
tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố đã tạo điều kiện cho ngành Y tế tỉnh
Trà Vinh đạt được thành quả sau:
- Về tổ
chức hệ thống ngành Y tế và cơ sở, giường bệnh, gồm có: Văn phòng Sở Y tế và
20 đơn vị trực thuộc chia theo tuyến, cụ thể như sau:
+ Tuyến
tỉnh có 06 Bệnh viện (1.790 giường bệnh) và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật là đầu mối triển khai thực
hiện công tác phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn tỉnh; Trung tâm Kiểm nghiệm; Trung
tâm Pháp y; Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm; Chi cục Dân số - KHHGĐ. Các bệnh viện tuyến tỉnh gồm có:
. Bệnh
viện đa khoa tỉnh: Hiện có 600 giường bệnh, dự kiến đến cuối năm 2021 sẽ hoàn
thành dự án Đầu tư xây dựng công trình Bệnh viện đa khoa tỉnh (700 giường) và
đưa vào hoạt động trong năm 2022 sẵn sàng tiếp đón phục vụ người bệnh.
. Các bệnh
viện khác, gồm: Bệnh viện Sản-Nhi (260 giường), Bệnh viện Y Dược cổ truyền (150
giường), Bệnh viện Lao và bệnh Phổi (150 giường), Bệnh viện đa khoa khu vực Cầu
Ngang (260 giường), Bệnh viện đa khoa khu vực Tiểu Cần (270 giường). Tổng số
giường bệnh 1.090 giường.
+ Tuyến
y tế cơ sở, gồm:
. Tuyến
huyện, thị xã, thành phố: Có 09 Trung tâm Y tế (TTYT) huyện, thị xã, thành phố;
trong đó có 06 TTYT có 620 giường bệnh, gồm TTYT các huyện: Càng Long (100 giường),
Châu Thành (70 giường), Cầu Kè (100 giường), Trà Cú (200 giường), Duyên Hải (50
giường) và TTYT thị xã Duyên Hải (100 giường) có thực hiện chức năng khám, chữa
bệnh); còn lại TTYT thành phố Trà Vinh, TTYT huyện Tiểu Cần và TTYT huyện Cầu
Ngang thực hiện công tác phòng bệnh là chính. Ngoài ra, còn có Bệnh viện Quân Dân
y (50 giường), Bệnh viện Trường Đại học Trà Vinh (50 giường), Bệnh xá Công an tỉnh
(23 giường) và Bệnh viện đa khoa tư nhân Minh Tâm (57 giường). Như vậy, tổng số
giường bệnh tuyến huyện có 800 giường bệnh.
. Tuyến
xã, phường, thị trấn: Có 100 cơ sở, gồm: 99 Trạm Y tế và 01 Phòng khám đa khoa
khu vực Hoà Minh.
Ước
đến năm 2022 (sau 30 năm tái lập tỉnh) toàn tỉnh có 2.590 giường bệnh, đạt 25,27
giường bệnh/vạn dân (ước dân số năm 2022: 1.024.690 người).
- Tổng
số cán bộ, nhân viên ngành y tế có 3.205 người; trong đó có: 521 bác sĩ, 47
dược sĩ đại học, 336 dược sĩ trung học, 648 y sĩ, số còn lại là cán bộ khác;
đạt 5,12 bác sĩ/vạn dân và 0,46 dược sĩ đại học/vạn dân.
Tổ
chức khám bệnh, chữa bệnh được 1.950.267 lượt người, bình quân mỗi người dân
được khám chữa bệnh 1,92 lần/năm; tổ chức thực hiện tốt công tác phòng, chống
dịch bệnh như: Cúm A(H5N1, H1N1), Tay chân miệng, Sốt xuất huyết, Tiêu chảy,
Quai bị; triển khai thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia;
kết quả tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (thể nhẹ cân) còn 16,9%.
So
với năm đầu tái thành lập, trong 10 năm qua được sự quan tâm của cơ sở y tế
tăng
có 81
cơ sở y tế gồm tỉnh, huyện, xã.
-
Cơ sở vật chất: Các đơn vị trực thuộc Sở Y tế tuyến tỉnh
-
Về nhân lực: Tổng số cán bộ công chức (CBCC) là 1.480 người, trong đó có 137
Bác sĩ, Dược sĩ đại học.
Đến
năm 2005: Có 110 cơ sở y tế gồm tỉnh, huyện, xã, trong số tăng có
Trường Trung học Y tế, Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khoẻ, còn lại là
trạm y tế.
-
Cơ sở vật chất: Hầu hết các cơ quan đều được xây dựng mới, tuyến cơ sở đã đầu
tư xây dựng mới cho Trung tâm Y tế Cầu Kè, các Trung tâm Y tế còn
lại được đầu tư hàng tỷ đồng để sửa chữa nâng cấp; Ở tuyến xã, phường, thị
trấn, có 90% trạm Y tế được xây dựng mới hoặc sữa chữa nâng cấp.
-
Trang thiết bị Y tế: Được đầu tư trang bị mới gần 90% theo danh mục ngành qui
định, Bệnh viện tuyến tỉnh được trang bị tương đối hiện đại tương ứng với Bệnh
viện loại II, về trình độ chuyên môn đã triển khai mổ sọ não, nội soi và một số
chuyên khoa sâu khác, năm 2003 Bệnh viện được đầu tư máy chụp cắt lớp điện toán
nhầm nâng cao chất lượng điều trị, đặc biệt là cấp cứu ngoại khoa do chấn
thương sọ não.
-
Công tác khám chữa bệnh: Tuyến tỉnh và huyện đều có đội ngũ cán bộ có trình độ
Đại học, sau Đại học như Chuyên khoa I, Chuyên khoa II, Thạc sĩ ... và Bác sĩ
chuyên khoa: Tai-Mũi-Họng, Răng-Hàm-Mặt, Mắt, Nội, Ngoại, Sản, Nhi và một số
chuyên khoa khác, ở tuyến xã, phường, thị trấn 80% có Bác sĩ đa khoa và
đội ngũ Y sĩ, Điều dưỡng, Nữ hộ sinh Trung học, Dược sĩ trung học, Y
sĩ Y học cổ truyền ... Từ đó công tác khám, điều trị tăng lên rõ rệt, năm 2005
tăng gấp 3 lần năm 1992. Đặc biệt công tác khám, chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo, người trong diện chính sách, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa trong các
năm qua ngành Y tế đã phối hợp với các ban, ngành, các tổ chức từ thiện xã hội
trong và ngoài tỉnh, nước ngoài.
-
Công tác phòng bệnh, phòng chống dịch: Luôn được xác định là mục tiêu hàng đầu
trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, và có một hệ thống được tổ
chức đến tận xã, phường, thị trấn, ấp, khóm, đội ngũ cán bộ đảm bảo được số
lượng và chất lượng, dụng cụ trang thiết bị cũng được đầu tư, đáp ứng được nhu
cầu phục vụ nhân dân
-
Về nhân lực: Tổng số cán bộ công chức (CBCC) là 2.039 người, trong đó có 385
Bác sĩ, 22 Dược sĩ đại học
-
Ứng dụng kỹ thuật cao trong điều trị: Trong năm đã đầu tư trang bị máy chụp cắt
lớp điện toán (CT Scanner) cho Bệnh viện đa khoa tỉnh, tạo điều kiện chẩn đoán
chính xác, xử lý kịp thời các ca bệnh mà trước đây phải chuyển lên
Bệnh viện tuyến trên để điều trị, nhất là các trường hợp chấn thương sọ não;
đồng thời giúp cho người bệnh giảm được rất nhiều chi phí khi phải đi chữa bệnh
tại thành phố Hồ Chí Minh
Năm
2010:
Được xem là năm có nhiều chuyển biến mạnh mẽ của ngành y tế Trà Vinh, toàn tỉnh
có 112 cơ sở khám chữa bệnh, với 1.825 giường bệnh; trong đó: 03 Bệnh viện tỉnh
(800 giường), 6 Bệnh viện huyện (430 giường), 15 Phòng khám (150 giường) và 89
trạm y tế (445 giường), đạt tỷ lệ 13,8 giường bệnh/10.000 dân (không tính
giường y tế xã); Cùng với việc phát triển y tế tuyến cơ sở, ngành y tế duy trì
đảm bảo 100% xã có bác sĩ phục vụ.
-
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Bệnh viện ĐKKV Tiểu Cần (100
giường), Bệnh viện Châu Thành (50 giường), Bệnh viện Lao và bệnh
phổi (100 giường); khởi công xây dựng bệnh viện chuyên khoa Nhi (100 giường),
bệnh viện chuyên khoa Phụ sản (100 giường) đảm bảo nhu cầu phục vụ sức khỏe
nhân dân.
Tính
đến cuối năm 2013, toàn tỉnh có 137 cơ sở khám, chữa bệnh,
gồm: 12 Bệnh viện, 15 Phòng khám Đa khoa khu vực, 93 Trạm Y tế; 02 Trạm Y tế
Quân Dân y kết hợp Đồn Biên phòng; 01 Trạm xá Công an; 01 Khu khám bệnh Quân Y
Biên phòng; Ban Bảo vệ Sức khoẻ cán bộ; Phòng khám bệnh của TTYTDP tỉnh; Trung
tâm Phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản, Trung tâm
Phòng chống HIV/AIDS, Khoa Chăm sóc sức khoẻ sinh sản của 08 TTYT huyện/TP
-
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý ngành, công tác chuyên
môn, quản lý bệnh viện, ứng dụng phần mềm M-Office trong trao đổi thông tin và
phát triển trang Thông tin điện tử của ngành. Song song với việc triển khai Đề
án Ứng dụng công nghệ thông tin ngành Y tế tỉnh Trà Vinh.
-
Trong năm Bệnh viện đa khoa tỉnh được trang bị máy MRI, máy siêu âm, máy chạy
thận nhân tạo, máy tán sỏi ngoài cơ thể tỷ từ nguồn quỹ kết dư BHYT
-
Công tác nghiên cứu khoa học được duy trì hàng năm, tính riêng năm 2013 có 13
đề tài cấp ngành được nghiệm thu (trong đó có 04 loại A, 08 loại B và 01 loại
C).
Năm
2015:
ngành Y tế đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu và đạt được nhiều kết
quả tích cực trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, góp
phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội.
-
Toàn tỉnh có 141 cơ sở khám, chữa bệnh, gồm: 13 Bệnh viện, 15 Phòng khám Đa
khoa khu vực, 94 Trạm Y tế, 05 Trạm Y tế kết hợp Quân Dân y, Ban Bảo vệ sức
khoẻ cán bộ, Phòng khám bệnh của Trung tâm YTDP tỉnh, Trung tâm Phòng chống
bệnh xã hội, Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản, Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS, Khoa Chăm sóc sức khoẻ sinh sản của 09 TTYT huyện/thị xã/thành phố.
-
Tổng số nhân lực toàn ngành Y tế: 3.031 người (trong đó: công chức 60 người,
viên chức 2.971 người)
-
Thực hiện Đề án 1816, Bệnh viện Đa khoa tỉnh tiếp nhận từ Bệnh viện Chợ Rẫy các
kỹ thuật như: phẫu thuật nội soi cắt đại trực tràng và phẫu thuật thay khớp
háng; tiếp nhận từ Bệnh viện Đại học Y Dược kỹ thuật phẫu thuật Phaco…từng bước
nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề của cán bộ y tế tuyến tỉnh, giúp giảm
chi phí cho bệnh nhân và giảm tải cho tuyến trên.
Ngành Y tế Trà Vinh luôn vận động và phát triển từng ngày, ứng dụng khoa học kỹ
thuật trong công tác quản lý và điều trị nhằm năng cao chất lượng phục vụ sức
khỏe cho nhân dân ngày càng tốt hơn.