Trong
cuộc sống chúng ta việc hạ đường huyết hay gặp ở những người bệnh đái tháo đường
nhưng cũng có thể xảy ra với bất cứ ai. Nếu không được phát hiện và xử trí kịp
thời sẽ để lại những hậu quả rất nặng nề.
Hạ
đường huyết là tình trạng lượng đường (glucose) trong máu hạ dưới mức 70 mg/dL và hoặc có các
triệu chứng đói lả, run, vã mồ hôi, mạch nhanh… Bình thường mức đường huyết của cơ thể trước ăn dao động từ 90 –
130mg/dL và sau khi ăn 1-2 giờ phải dưới 180 mg/dL.
1. Hạ đường huyết liên quan đến tăng
nguy cơ tử vong
Bệnh
nhân đái tháo đường có hạ đường huyết nghiêm trọng, tỷ lệ tử vong tăng 3,4 lần.
Hạ đường huyết gây ra một số phản ứng điều hòa ngược: Giảm tiết insulin từ tế
bào β tuyến tụy, tăng bài tiết glucagon từ tế bào α tuyến tụy, tăng phản ứng thần
kinh giao cảm do tăng adrenaline và norepinephrine trong huyết tương, cũng như
tăng bài tiết của ACTH / glucocorticoid. Bên cạnh đó, một số thay đổi gián tiếp
gây ra bởi hạ đường huyết ảnh hưởng đến bài tiết cytokine gây viêm, chức năng nội
mô, đông máu và tiêu sợi huyết, tất cả các phản ứng này đều góp phần gây ra tử
vong trên bệnh nhân đái tháo đường.
2. Cách chẩn đoán hạ đường huyết
Để
xác định được hạ đường huyết thì xét nghiệm đường máu mao mạch là biện pháp
sàng lọc nhanh để xác định nồng độ glucose máu.
Trong
trường hợp nồng độ glucose máu thấp < 2,8 mmol/L (50 mg/dL), các loại máy đo
đường máu mao mạch thường không phát hiện được nên vẫn cần lấy mẫu máu tĩnh mạch
làm xét nghiệm định lượng nồng độ glucose máu.
Ngoài
ra, tùy từng trường hợp, thể trạng bệnh nhân bác sĩ có thể chỉ định thêm các
xét nghiệm để tìm kiếm nguyên nhân các bệnh lý khác: nhiễm trùng, nhồi máu cơ
tim, tai biến mạch máu não, rối loạn chức năng, suy thận, uống rượu, suy nhược
cơ thể và các bệnh lý nội tiết khác (bệnh Addison, suy giáp, cường giáp, suy
tuyến yên…), dùng quá liều insulin/thuốc uống hạ đường máu…
Hình ảnh
cán bộ y tế thử đường huyết mao mạch cho người bệnh.
3. Hạ đường huyết có thể gây ra tổn thương não, thậm
chí có thể dẫn đến hôn mê
Các
bệnh nhân đái tháo đường thông thường chỉ quan tâm đến đường huyết khi tăng cao
mà không chú ý đến tình trạng hạ đường huyết. Hạ đường huyết nếu không xử trí kịp
thời có thể dẫn đến co giật, mất ý thức, thậm chí hôn mê và tử vong.
Ngoài
ra, hạ đường huyết cũng gây ra chóng mặt và suy nhược; dễ té ngã dẫn đến chấn
thương, tai nạn giao thông, tai nạn lao động và nguy cơ sa sút trí tuệ ở người
lớn tuổi…
Thời
gian tiến triển của bệnh, các đợt hạ đường huyết lặp đi lặp lại có thể dẫn đến
hạ đường huyết vô ý thức (nghĩa là hạ đường huyết không được nhận biết). Khi đó
cơ thể và não không còn tạo ra các dấu hiệu và triệu chứng cảnh báo lượng đường
trong máu thấp như run rẩy hoặc nhịp tim nhanh… Khi xảy ra, tình trạng này người
bệnh sẽ có nguy cơ hạ đường huyết nghiêm trọng và có thể đe dọa đến tính mạng.
Trường
hợp bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường có các đợt hạ đường huyết tái phát và vô ý
thức, bác sĩ có thể sẽ điều chỉnh phương pháp điều trị thích hợp hơn.
4. Điều trị hạ đường huyết
Mục
tiêu điều trị tình trạng hạ đường huyết là phát hiện sớm và điều trị hạ đường
huyết ngay lập tức. Cần làm tăng đường huyết nhanh nhất tới mức an toàn nhằm giảm
các biến chứng và cải thiện triệu chứng của bệnh. Tuy nhiên cũng cần tránh điều
trị quá mức vì có thể làm tăng đường huyết và tăng cân.
Xử
trí hạ đường huyết nên tuân theo "quy tắc 15/15″: Đo đường huyết và nếu đường
huyết < 70 mg/ dl, ăn hay uống thực phẩm chứa 15g Carbohydarte và đợi 15
phút, sau đó đo lại đường huyết. Nếu đường huyết vẫn < 70 mg/dl, bệnh nhân lập
lại quy trình trên cho đến khi đường huyết > 100 mg/dl.
Đường
huyết có thể sẽ tiếp tục hạ trở lại sau khi đã được xử trí bằng cách uống hay
ăn thực phẩm chứa carbohydrate, vì thế nên kiểm tra lại đường huyết mỗi 60 phút
sau khi điều trị.
Thức
ăn tương đương 15g Glucose là: 2 - 3 viên đường; 1/2 ly nước trái cây; 1/2 ly
nước ngọt; cốc sữa; 5 hay 6 viên kẹo; 15ml hay 1 thìa canh đường hay mật ong…
Trường
hợp hạ đường huyết gây lú lẫn, co giật, hôn mê:
-
Tuyệt đối không được cố cho bệnh nhân uống nước đường qua đường miệng vì khi đó
có thể làm dung dịch đường vào đường hô hấp và gây nguy hiểm cho bệnh nhân.
-
Tại phòng cấp cứu: Bác sĩ có thể tiêm hoặc truyền 10-25g Glucose (20-50 mL
Dextrose 50%) qua đường tĩnh mạch, sau đó duy trì bằng Dextrose 5% hay 10% nhằm
giữ đường huyết trên 100mg/dl.
Có thể bổ sung đường ngay lập tức bằng
cách ăn kẹo ngọt.
5. Phòng ngừa nguy cơ hạ đường huyết
Khi
tình trạng hạ đường huyết đã được giải quyết, để phòng ngừa hạ đường huyết tái
phát, bệnh nhân nên kiểm soát tình trạng bệnh của mình bằng cách:
-
Xây dựng chế độ ăn uống điều độ: Cân bằng các bữa ăn với lượng carbohydrate mà
bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị để ngăn ngừa nguy cơ hạ đường huyết;
Cần ăn đủ lượng carbohydrate trước khi tập thể dục và ăn nhẹ trong lúc tập thể
dục nếu cần.
-
Cần ăn các bữa ăn nhẹ ngay khi lượng đường quá thấp hoặc khi gặp các triệu chứng
đầu tiên của bệnh.
-
Nên báo với những người sống hoặc làm việc chung tình trạng bệnh đái tháo đường
của mình và hướng dẫn họ cách xử trí nếu bạn bất tỉnh.
- Cần
kiểm tra và theo dõi lượng đường huyết theo lịch mà bác sĩ hướng dẫn, tư vấn.
-
Nên tập thể dục vừa sức và theo dõi cơ thể tránh luyện tập quá sức.
-
Phải tuân theo hướng dẫn của bác sĩ. Không được tự ý uống thuốc không được chỉ
định hoặc tự ý bỏ thuốc đang điều trị.
-
Tái khám đúng lịch hẹn để được theo dõi diễn tiến của bệnh.
Khi
nhận thấy các triệu chứng đầu tiên của hạ đường huyết cần xử trí ngay để bệnh
không tiến triển và gây nguy hiểm.
BSCKI. Lê Minh Hải – PGĐ-CDC.TV